Mô tả vắn tắt học phần

1. Tên học phần:

Tài chính hành vi

2. Ngôn ngữ giảng dạy:

Tiếng Việt

3. Mã học phần:

BEH605031

4. Bộ môn phụ trách giảng dạy:

KD - Khoa Tài chính

5. Trình độ:

Thạc sĩ

6. Số tín chỉ:

3

7. Phân bổ thời gian:

  • Đối với hoạt động trên lớp:
  • Lý thuyết: 30 giờ tín chỉ
  • Làm việc nhóm, thảo luận:
  • Đối với hoạt động tại phòng máy tính, phòng mô phỏng, …:
  • Thực hành, làm việc nhóm, thảo luận: 15 giờ tín chỉ
  • Tự nghiên cứu, tự học: 105 giờ tín chỉ
  • Đồ án, Đề án, Dự án
  • Thực tập

8. Tính chất học phần:

Bắt buộc

9. Ngành áp dụng:

Tài chính

10. Điều kiện tiên quyết:

STT Mã học phần Tên học phần (VN) Tên học phần (EN) Số tín chỉ
1 FIN505095 Đầu tư tài chính Financial Investment 3
2 FIN505084 Tài chính doanh nghiệp Corporate Finance 3

11. Mục tiêu học phần:

Môn học này nhằm cung cấp cho học viên nền tảng lý thuyết tài chính hành vi liên quan đến việc ra quyết định lựa chọn trong lĩnh vực đầu tư tài chính và tài chính doanh nghiệp. Môn học tập trung luận giải cách thức mà các nhân tố tâm lý hành vi và các lệch lạc nhận thức tác động đến khuynh hướng lựa chọn và ra quyết định của các đối tượng cá nhân và doanh nghiệp. Người học được trang bị kiến thức chuyên sâu để nhận diện và phân tích các lệch lạc hành vi ra quyết định, cũng như vận dụng để đánh giá và nghiên cứu các ảnh hưởng của chúng đến các chiến lược đầu tư tài chính và các quyết định chính sách doanh nghiệp.

12. Mô tả vắn tắt nội dung học phần:

Môn học này được thiết kế để cung cấp các kiến thức chuyên sâu về tài chính hành vi. Sau khi hoàn thành môn học, học viên được kỳ vọng sẽ nắm bắt được các giới hạn của lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá, các hiện tượng bất thường mà các lý thuyết tài chính cổ điển không thể giải thích, các thách thức của lý thuyết thị trường hiệu quả, các giả định và nội dung chính của lý thuyết hữu dụng kỳ vọng, lý thuyết triển vọng, tự nghiệm và các lệch lạc trong hành vi của con người, các mẫu hình, đặc điểm nhà quản lý lý trí và nhà đầu tư phi lý trí. Học viên có thể nhận diện được tác động của các lệch lạc hành vi như sự quá tự tin, neo quyết định, sự quen thuộc, tâm lý bầy đàn, sự tính toán bất hợp lý đến các quyết định đầu tư, tài trợ và chính sách cổ tức.